Trong các thập kỷ gần đây, trong quan hệ với VN, TQ đã hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày 19.1.1974 tại Hoàng Sa và ngày 14.3.1988 tại Trường Sa.
Những căn cứ mơ hồ của Trung Quốc về Biển Đông
- Cập nhật : 12/10/2016
Trung Quốc đã xúc tiến kế hoạch xâm lấn Biển Đông như thế nào và dùng lý lẽ nào để "biện minh" cho những chiêu bài đã "lộ tẩy" trên Biển Đông?
Dùng tài liệu mơ hồ làm căn cứ
Những nội dung lịch sử, địa lý… mà phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi, thực hư thế nào? Giá trị của chúng đến đâu?
Sau đây là một số nhận xét đáng quan tâm:
Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á, Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này triển khai các hoạt động hàng hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý mà nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, cụ thể:
Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220 – 265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hàng hải trong Biển Đông nhưng lại không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định rằng đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
GS Ngô Vĩnh Long, học giả Việt Nam ở nước ngoài, cho biết: "Trung Quốc tuyên truyền rất dữ dội trong công chúng của họ về vấn đề Biển Đông. Họ có không biết bao nhiêu người làm việc này, những người gọi là “học giả” của họ... Phần lớn những cái gọi là “nghiên cứu” của họ không có giá trị. Còn những nghiên cứu có giá trị thì họ chưa đưa ra, chỉ dùng riêng cho họ với nhau thôi." |
Bản đồ nhà Thanh 1904, ghi nhận lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam |
Ngụy biện tài liệu lịch sử, văn hóa
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848)… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, chuyến khảo sát địa lý, sách hàng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên ban chấp hành Hội Sử Học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với những tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: "Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa chỉ của Việt Nam là Giao Chỉ quốc và biển là biển của Giao Chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Tất cả đều rất thống nhất với nhau".
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này…
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X – XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng “triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình”, “hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng đảo Tây Sa”. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng cho một sự chiếm hữu nào.
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở “Nam Hải” để nói rằng ‘quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên’.
Theo Nguyên sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: “Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía nam qua Chu Nhai, phía bắc đến Thiết Lặc”. Dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Bắc Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là “đo đạc” “toàn quốc” như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là “đo đạc bốn biển” cho nên mới có cả một số nơi ngoài ‘cương vực Trung Quốc’ như Cao Ly hay Triều Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Liên Xô, Bắc Hải nay là vùng biển phía bắc Xi-bia, Nam Hải tức Biển Đông.
Mặt khác, chính Nguyên sử cũng đã nói rõ “cương vực” Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710 – 1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do Hải Quân tỉnh Quảng Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tú Canh Sa,vòng quanh ba ngàn dặm” . Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía bắc đảo Hải Nam, Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có bảy hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam, Tứ Canh Sa là bãi cát phía Tây đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành hàng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán, trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng , nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí - đó là những phương tiện được nhà nước thừa nhận…”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó thiếu hẳn yêu cầu mà luật pháp quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.
Ông Lý Lệnh Hoa, một học giả Trung Quốc, đã phê phán Đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) của Trung Quốc như sau: “Những cách làm mơ hồ như nhấn mạnh tư liệu lịch sử và Đường 9 đoạn lịch sử hay căn cứ vào nhân tố địa mạo địa chất đáy biển là đi ngược lại cơ sở lý luận của việc phân định ranh giới biển quốc tế hiện nay”. |
Ông Lý Lệnh Hoa, một học giả Trung quốc bác bỏ đường lưỡi bò |
Lờ đi tài liệu khẳng định lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến Hải Nam
Các tham vọng của trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 cho rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18 độ 30 phút Bắc”.
Sách Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư năm 1906 ghi nhận lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam |
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết “Từ đời nhà Hán đến đời nhà Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam”.
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở trường đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch hội Luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch hội Luật gia châu Âu kết luận: Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Trung Hoa Dân Quốc tối tân địa đồ của Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch không có Hoàng Sa và Trường Sa. Nguồn báo CAND |
Hồng Chuyên // Theo InfoNet
(Lược trích từ sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”)