Việt Nam có đầy đủ chứng lý và căn cứ pháp luật để chứng minh chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Biển Đông: Phi lý yêu sách “Đường lưỡi bò”
- Cập nhật : 12/10/2016
“Đường lưỡi bò”-một yêu sách mập mờ
“Đường lưỡi bò” đã xuất hiện như thế nào, vào lúc nào và bản chất của nó là gì? Điều này đã được nhiều học giả đề cập đến với những thông tin khác nhau. Tuy nhiên, để tiếp cận vấn đề một cách khách quan, đa chiều có lẽ nên tiếp nhận thông tin từ chính những học giả Trung Quốc qua các công trình nghiên cứu khoa học của họ.
Theo học giả Lý Lệnh Hoa, nghiên cứu viên Trung tâm Thông tin Hải dương Trung Quốc thì “năm 1946, Lâm Tuân dẫn hạm đội đi thu phục các đảo. Nói là thu phục nhưng theo tôi, đúng ra là tiếp thu tài sản của kẻ thất bại. Có một số đảo thực ra không biết là của ai. Nhật Bản chiếm, rồi thua trận, đem dâng cho ta, dĩ nhiên ta vui vẻ nhận (…). Đi cùng hạm đội có một ông ở Bộ Địa chất và Khoáng sản vung bút vẽ đại một đường đứt khúc hư ảo thành một cái túi to tướng. Sau khi quay về, in vào bản đồ của Chính phủ Dân quốc, đem công bố, thế là ra đời một đường biên giới (…)”.
Theo đó, bản đồ đầu tiên thể hiện “đường lưỡi bò” có từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Bản đồ này được Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ Cộng Hoà Trung Hoa xuất bản tháng 2/1948, với tên gọi Nam hải chư đảo vị trí đồ. Gọi là “đường lưỡi bò” bởi nó giống cái lưỡi bò liếm xuống Biển Đông, được thể hiện bằng đường đứt khúc 11 đoạn.
Bản đồ “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” do Sở Phương vực (Trung Hoa dân quốc) biên soạn năm 1947 sau chuyến đi của Lâm Tuân. Bản đồ được vẽ và viết bằng tay. Đây là tiền thân của cái gọi là “đường chữ U” hiện nay - Ảnh: hudong.cn |
Năm 1949, chính quyền Tưởng Giới Thạch thất bại trước Bắc Kinh, rút ra đảo Đài Loan, và cũng từ đó, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (hay còn gọi là Trung Quốc) ra đời. Năm 1949, Trung Quốc cho ấn hành một bản đồ, trong đó, “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như bản đồ trước đó của Cộng hoà Trung Hoa xuất bản tháng 2 năm 1948. Đến năm 1953, bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn. Hai nét ở Vịnh Bắc Bộ đã bị xoá.
Như vậy, “đường lưỡi bò” bắt nguồn từ một bản đồ tư nhân, do ông Bạch Mi Sơ, người đi theo hạm đội của Lâm Tuân ra quần đảo Trường Sa, phóng tác năm 1946 và sau đó được đưa vào bản đồ của Chính phủ Cộng hòa Trung Hoa, rồi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Việc làm này là hoàn toàn khác thường vì vào thời điểm “đường lưỡi bò” được đưa ra, theo các quy tắc của luật quốc tế, chiều rộng lãnh hải chỉ tối đa 3 hải lý.
Các học giả Trung Quốc, vì vậy, khách quan thừa nhận: “không rõ khi vẽ đường này, tác giả của nó có đủ hiểu biết và kiến thức về luật biển quốc tế đương đại hay không?” Có thông tin cho biết, chính tác giả của “đường lưỡi bò” này, ông Bạch Mi Sơ, đã được mời đến Bắc Kinh năm 1990 để lý giải tại sao lại thể hiện đường yêu sách như bản đồ mà ông đã phóng tác năm 1946. Tuy nhiên, ông này đã không thể đưa ra được lý do xác đáng cho yêu sách kỳ lạ này.
Tuy vậy, để biện hộ cho “con đường hư ảo” này, có không ít học giả Trung Quốc đã cố tìm cách đưa ra một số lập luận.
Giáo sư Cao Chí Quốc, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc cho rằng: “Nghiên cứu kỹ các tài liệu Trung Quốc cho thấy, Trung Quốc chưa bao giờ yêu sách toàn bộ cột nước của biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) mà chỉ có các đảo và vùng nước xung quanh các đảo nằm trong đường này.”
Còn theo học giả Phan Thạch Anh, đường này đã tồn tại một nửa thể kỷ nay, không quốc gia nào phản đối, vì vậy, đã tạo ra một danh nghĩa lịch sử cho Trung Quốc, là đường biên giới quốc gia. Trung Quốc yêu sách chủ quyền không chỉ các đảo, đá của bốn quần đảo Đông Sa (Pratas) Tây Sa (Hoàng Sa), Trung Sa (bãi ngầm Macclesfield) và Nam Sa (Trường Sa) mà còn toàn bộ vùng nước trong đường chữ U đó.
Một học giả khác là Chu Khắc Nguyên lại cho rằng, yêu sách của Trung Quốc không nên xem như yêu sách vùng nước lịch sử theo nghĩa truyền thống mà giống như một dạng yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán lịch sử chứ không phải là yêu sách chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối.
Tuy nhiên, cũng có không ít các học giả Trung Quốc đã chính thức lên tiếng bác bỏ yêu sách này. Tháng 6 vừa qua, tại Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com đã tổ chức Hội thảo mang tên “Tranh chấp Biển Đông, chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế”. Tại Hội thảo này, ông Lý Lệnh Hoa, Trung tâm Thông tin Hải dương Trung Quốc nêu rõ: “Từ xưa đến nay, trên thế giới, không hề có đường biên giới trên bộ hay trên biển hư ảo. Đường 9 đoạn trên Nam Hải là một đường hư ảo. Tiền nhân của chúng ta đã vạch ra đường 9 đoạn không hề có kinh độ, vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp lý.”
Còn ông Trương Thử Quảng, Chủ tịch Hội đồng Học thuật, Viện Nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc, Giáo sư Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng: “Đường 9 đoạn không hề có chỗ dựa về pháp luật. Trong nước có các nhà luật học, cả các đồng nghiệp ở Đài Loan cũng có chung nhận thức như thế. Nó chỉ do Trung Quốc đơn phương tuyên bố mà thôi.”
Trên đây là những ý kiến khác nhau của các học giả Trung Quốc. Còn quan điểm chính thức của Trung Quốc thì như thế nào?
Công hàm của Trung Quốc đệ trình lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc ngày 7/5/2009 là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua, thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về vấn đề này. Đây cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố bản đồ đường yêu sách này với thế giới.
Công hàm này viết: “Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển liền kề và được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và tầng đất dưới đáy của vùng biển đó.”
Với những đề cập của Trung Quốc trong Công hàm về “vùng nước liền kề” và “vùng nước liên quan”, có thể thấy, quan điểm chính thống của Trung Quốc liên quan đến bản chất của yêu sách đối với vùng nước của Biển Đông rất mơ hồ.
TS. Marco Benatar, Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Brussel, Bỉ nhận xét: “tiêu chí để xét ý định rõ ràng về phía Trung Quốc không được đáp ứng đầy đủ. Các cách giải thích khác nhau về “đường lưỡi bò” do các học giả đưa ra cũng như Công hàm mập mờ của Trung Quốc ngày 7/5/2009 là minh chứng cho kết luận này. Bên cạch cấu trúc câu phức tạp, các thuật ngữ được sử dụng trong Công hàm như “các vùng biển liên quan” hay “các vùng biển lân cận”, gây khó hiểu. Các thuật ngữ đó không hề có trong Công ước của Liên Hợp Quốc về luật Biển năm 1982.”
Vì thiếu các chú thích cùng cách diễn đạt khó hiểu, xa rời các tiêu chuẩn bản đồ quốc tế trong Công hàm của Trung Quốc gửi Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, nên ý định của “đường lưỡi bò” là không rõ ràng, chưa thể hình thành một yêu sách lãnh thổ.
GS. Erik Franckx, Trưởng Khoa Luật Quốc tế và châu Âu, Đại học Brussel, Bỉ còn chỉ ra rằng: “Các bản đồ thể hiện đường 9 đoạn vẽ một bức tranh khác về Biển Đông so với các bản đồ cũng như các tài liệu khác của các quốc gia ven biển trong khu vực.
Thêm vào đó, các bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” không nhất quán. “Đường lưỡi bò” trên bản vẽ của Trung Quốc trước năm 1953 bao gồm 11 nét đứt, trong khi những phiên bản sau đó chỉ bao gồm 9 nét. Không có lý do chính thức nào được đưa ra để giải thích cho việc xoá đi 2 nét đứt này. Khi các bản đồ không thống nhất, mâu thuẫn với nhau thì các tài liệu đó không đáng tin cậy.”
“Đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc không ổn định và chính xác. Theo TS. Hoàng Việt, một con đường như vậy, rõ ràng, không thể nào được coi là “biên giới quốc gia” theo luật pháp quốc tế vì đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là ổn định và dứt khoát:
TS Việt khẳng định: “Nếu nó là một đường biên giới thì có được không? Câu trả lời là không vì đường biên giới nó phải ổn định, nhưng cái đường này của Trung Quốc, họ gọi là “biên giới” nhưng không có toạ độ chính xác, tuỳ tiện. Ban đầu 11 đoạn, sau bỏ bớt còn 9 đoạn. Biên giới mà cứ điều chỉnh như vậy đâu thể là biên giới quốc tế được.”
Bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc còn thiếu chính xác cả về mặt kỹ thuật. Án lệ cũng nhắc đến yêu cầu về tính chính xác về mặt kỹ thuật đối với các bản đồ. Trong vụ đảo Palmas, trọng tài Max Huber đã viết: “Điều kiện đầu tiên mà các bản đồ cần phải đáp ứng để có thể làm bằng chứng cho các lập luận pháp lý đó là tính chính xác về mặt địa lý.”
Bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không đáp ứng được tiêu chuẩn này.
Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins cho rằng với lý do trên, tuyên bố của Trung Quốc, vì vậy, là hoàn toàn không có cơ sở trong Luật quốc tế: “Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền nhưng không tuân theo luật pháp quốc tế, do vậy, họ không thể đưa ra được những con số cụ thể, những bằng chứng hợp pháp để có thể bảo vệ cái họ tuyên bố chủ quyền. Tuyên bố của họ không có cơ sở và Trung Quốc rất biết điều này.”.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã và đang tìm cách hợp thức hóa “đường lưỡi bò”, bằng cả việc lập pháp lẫn tổ chức các hoạt động tại thực địa, nhằm giành lấy sự công nhận trên thực tế yêu sách phi lý đó.
Chẳng hạn, Trung Quốc trang bị cho lực lượng kiểm ngư của họ không kém gì lực lượng quân sự để bắt giữ các ngư dân cũng như các tàu cá hoạt động trong khu vực này. Công ty Dầu khí hải dương CNOOC của nước này đã mời thầu quốc tế 9 lô nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa Việt Nam; tuyên bố thiết lập cái gọi là “Thành phố Tam Sa”, gộp cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và bãi Macclesfield cùng vùng biển trong cái gọi “đường đứt khúc 9 đoạn”, với 80% diện tích Biển Đông vào “thành phố” này.
Tướng quân đội Pháp Daniel Schaeffer, nguyên tùy viên quân sự của Pháp ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan phân tích về những hành động này của Trung Quốc: “Hãy nhìn vào vị trí của những nơi diễn ra các vụ việc. Năm 2008, công ty ConocoPhillips (Mỹ) đã rút lui khỏi vùng Mộc Tinh và Hải Thạch. Các mỏ khí này nằm trên đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc đưa ra. Vụ việc xảy ra đối với tàu Bình Minh 02 là trên đường đứt khúc 9 đoạn. Vụ đụng độ giữa Trung Quốc và Philippines ở khu vực Reed Bank (bãi Cỏ Rong) xảy ra trên đường đứt khúc 9 đoạn,… Họ muốn cụ thể hóa yêu sách của mình bằng những vụ việc đó.” Yêu sách và những lập luận mơ hồ đó của Trung Quốc cũng không thuyết phục được nhiều học giả Trung Quốc. Giáo sư Thời Đoạn Hoằng thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc cho rằng: “Toàn bộ Biển Đông thuộc về Trung Quốc ư? Gần đây, báo chí chúng ta cũng lập lờ về vấn đề này. Nếu nói toàn bộ Biển Đông là của Trung Quốc thì cả thế giới sẽ không chấp nhận đâu!”./.
Yêu sách dựa trên lịch sử hay theo kiểu tự hành xử?
Bản chất thực sự của yêu sách “đường lưỡi bò”, đến nay, vẫn bị bao phủ bởi nhiều bí ẩn. Tuy nhiên, với Công hàm ngày 7/5/2009 gửi lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, có kèm bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò”, đã bộc lộ rõ việc Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận “tính chất lịch sử của đường lưỡi bò, coi Biển Đông như một vịnh lịch sử”. Như vậy, toàn bộ Biển Đông sẽ trở thành “ao hồ” của Trung Quốc.
Năm 1962, Uỷ ban Pháp luật quốc tế đã thực hiện một nghiên cứu với tựa đề: “Quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử, bao gồm cả vịnh lịch sử”. Theo đó, một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các phán quyết của toàn án, phải thoả mãn ít nhất hai điều kiện. Một là, quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách một cách thực sự, liên tục và hoà bình trong thời gian dài. Hai là, có sự chấp nhận công khai hoặc sự im lặng không phản đối của các quốc gia khác, nhất là các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này.
Sách Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư năm 1906 ghi nhận lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam |
Trên cơ sở pháp lý này, chúng ta cùng xem xét xem “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là yêu sách quyền lịch sử hay yêu sách theo kiểu tự hành xử.
Về điều kiện thứ nhất, Trung Quốc, trước hết, phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền của mình trên toàn bộ vùng biển yêu sách. Điều này có nghĩa là, chế độ pháp lý của vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” theo chế độ pháp lý của nội thuỷ và lãnh hải.
Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò” có thể được xem là nội thủy của Trung Quốc không?
Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 quy định quy chế pháp lý của vùng nội thủy. Theo đó, vùng nước nội thủy về mặt pháp lý được nhất thể hóa với lãnh thổ đất liền nên có chế độ pháp lý đất liền, nghĩa là đặt dưới chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia ven biển. Tàu thuyền nước ngoài muốn vào, ra vùng nội thủy phải xin phép nước ven biển và phải tuân theo luật lệ của nước đó. Nước ven biển có quyền không cho phép.
Thực tế cho thấy, kể từ khi “đường lưỡi bò” xuất hiện trên bản đồ do Trung hoa Dân quốc xuất bản năm 1948, tàu nước ngoài, trong đó có cả tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò”. Nước này không có hành động nào ngăn cản các tàu nước ngoài qua lại vùng biển này. Do vậy, vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò” không thể được coi là vùng nội thủy của Trung Quốc.
Vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” có thể được xem là lãnh hải của nước này không?
Lãnh hải của một quốc gia ven biển được coi là lãnh thổ biển của quốc gia ven biển. Nước ven biển có chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình; chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, đến đáy và lòng đất dưới đáy của vùng này. Tuy nhiên, luật pháp quốc tế trù định quyền của mọi loại tàu, thuyền của các quốc gia được đi qua không gây hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển với điều kiện không gây ảnh hưởng đến hoà bình, trật tự, an ninh và môi trường của quốc gia ven biển. Trên thực tế, một số quốc gia yêu cầu tàu, thuyền nước ngoài phải xin phép hoặc thông báo trước mới được vào lãnh hải của mình, đặc biệt với tàu chiến nước ngoài. Cần lưu ý là, quyền đi qua không gây hại không được áp dụng đối với vùng trời trên lãnh hải. Phương tiện bay nước ngoài muốn bay qua vùng trời trên lãnh hải của một nước ven biển phải xin phép nước ven biển đó.
Căn cứ vào quy chế pháp lý này, TS. Hoàng Việt, giảng viên Trường đại học Luật TP. HCM cho rằng, vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” cũng không thể coi là lãnh hải của Trung Quốc: “Lãnh hải thì tàu bè có quyền đi qua không gây hại. Tàu chiến thì phải xin phép. Vùng trời bên trên lãnh hải khi máy bay đi qua cũng phải xin phép. Nhưng kể từ khi Trung Quốc chính thức xuất bản bản đồ có “đường lưỡi bò” đến nay, các tàu quân sự, rồi máy bay đi qua, chưa bao giờ phải xin phép Trung Quốc. Nó là lãnh hải cũng không phải. Nội thuỷ cũng không phải. Vậy nó tương ứng với cái gì của luật pháp quốc tế? Trung Quốc không giải thích được điều này.”
Để đạt được“danh nghĩa lịch sử”, Trung Quốc còn cần chứng minh được quyền chiếm hữu có hiệu quả và quá trình quản lý, kiểm soát vùng biển được bao bọc bởi “đường lưỡi bò” một cách thực sự, hoà bình và liên tục trong thời gian dài. Điều này thật khó vì: Nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn Địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn Địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí đó chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Những chỉ dụ của Hoàng Đế hoặc tấu sớ của các quan trong triều cũng thừa nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”
Các bản đồ về lãnh thổ Trung Quốc do người nước ngoài cùng thời vẽ và giải thích cũng phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc.
Trong tất cả các tài liệu, Trung Quốc đều nhắc rằng, ngư dân nước này đã đến các đảo và vùng biển này hàng ngàn năm nhằm khẳng định chủ quyền từ xa xưa của mình. Nhưng phải khẳng định ngay rằng, đó chỉ là những hành vi cá nhân, không phải là những hoạt động dưới danh nghĩa nhà nước; vì thế không phù hợp với nguyên tắc chiếm hữu thật sự theo quy định của Luật pháp và thực tiễn quốc tế. Hơn nữa, trong cùng thời kỳ này, ngư dân Việt Nam và đặc biệt là những tổ chức của Nhà nước Viêt Nam, cũng hay lui tới và tiến hành các hoạt động khai thác và quản lý các quần đảo đó. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của ngư dân và dân buôn Ả Rập, Ấn Độ, Malay, Việt, không có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là “ao hồ Trung Quốc”.
Rõ ràng, vì cơ sở pháp lý thiếu thuyết phục, đến nay, Trung Quốc không đưa ra được các toạ độ chính xác đối với yêu sách lịch sử của mình và giữ im lặng về bản chất của “đường lưỡi bò” và chế độ pháp lý của vùng biển được bao bao bởi đường đó.
Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins khẳng định, không có bất cứ một tổ chức luật pháp quốc tế có uy tín nào bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, coi yêu sách chủ quyền trên Biển Đông với “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc, là một tuyên bố nghiêm túc.
Giáo sưMarvin Ottnói: “Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc chủ yếu dựa vào vào tính lịch sử. Tuy nhiên, theo luật pháp quốc tế thì điều này không chấp nhận được. Khi đưa ra bất kỳ tuyên bố chủ quyền nào, đều phải dựa vào luật pháp quốc tế, nhưng Trung Quốc thực sự không làm được điều này. Trung Quốc đã chấp nhận Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc, bằng việc ký thông qua Công ước. Chính vì vậy, Trung Quốc phải tuân thủ các điều kiện, từ ngữ và các yêu cầu của Công ước này. Và Công ước này không thừa nhận những kiểu tuyên bố chủ quyền như vậy
Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền bằng cách đưa các lực lượng đến khu vực Biển Đông, tấn công các tàu cá, đóng căn cứ quân sự ở đó nhưng lại không chứng minh được đòi hỏi chủ quyền của nước này theo luật pháp quốc tế”.
“Danh nghĩa lịch sử”, “chủ quyền lịch sử” mà Trung Quốc thường nêu lên để biện hộ cho “đường lưỡi bò”, không xuất phát từ những căn cứ khoa học, khách quan, mà chỉ xuất phát từ lợi ích và tham vọng độc chiếm Biển Đông. Yêu sách dựa trên danh nghĩa lịch sử thực chất chỉ là cách yêu sách theo kiểu tự hành xử, bất chấp luật pháp quốc tế.
Về vấn đề thứ hai, quan điểm của các các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này về yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc như thế nào?
Chúng tôi sẽ đề cập nội dung này trong bài 3: “Quốc tế chưa bao giờ công nhận “đường lưỡi bò”.
Quốc tế chưa bao giờ công nhận “đường lưỡi bò”
Tuy có những đánh giá khác nhau về nội dung và tính chất của “đường lưỡi bò”, một số học giả Trung Quốc và Đài Loan vẫn cố tình khẳng định rằng, đường này đã được quốc tế công nhận rộng rãi. Các học giả Đài Loan giải thích, đường này thể hiện yêu sách đối với các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm trong phạm vi “đường lưỡi bò” từ năm 1946. Còn các học giả Trung Quốc cho rằng, đây là đường biên giới truyền thống trên Biển Đông và Trung Quốc yêu sách không chỉ các địa vật mà cả vùng nước bên trong và kế cận.
Theo họ, trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và các nước Đông Nam Á khác đều không đưa ra phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”. Điều đó chứng tỏ, các nước này đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường này cũng như “tính chất lịch sử” của nó. Điều đó cũng chứng tỏ, các quốc gia này đã công nhận cả 4 quần đảo (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Nhưng sự thật lại không phải như vậy.
Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, kể từ khi Trung Quốc xuất bản bản đồ có “đường lưỡi bò” từ năm 1948 đến năm 2009, nước này chưa bao giờ đưa ra yêu sách chính thức vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là “vùng nước lịch sử”.
Đại diện của Trung Quốc tham gia Hội nghị của Liện Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã không có tuyên bố gì về “đường lưỡi bò”. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và công bố các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, Trung Quốc cũng không hề đề cập đến “đừng lưỡi bò”. Chẳng hạn như Tuyên bố quy định lãnh hải 12 hải lý năm 1958; Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Luật về Đường Cơ sở lãnh hải năm 1996; Luật về vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa năm 1998; Luật về quản lý và sử dụng biển năm 2001; Luật về nghề cá năm 2004,…
Thượng nghị sỹ Mỹ Lieberman, Chủ tịch Ủy ban An ninh Nội địa và Các vấn đề của Chính phủ Mỹ: “Những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông quá rộng" |
Theo luật pháp quốc tế, một yêu sách có liên quan đến biên giới lãnh thổ quốc gia hợp pháp phải thể hiện rõ ràng, công khai ý chí về chủ quyền trên lãnh thổ mà quốc gia đó yêu sách. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử; ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội biết được cái gì đang diễn ra.
Theo TS. Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP. HCM, việc cho xuất bản bản đồ của một cá nhân mà không công bố rõ ràng trước cộng đồng quốc tế thì không thể gọi là một yêu sách lãnh thổ của một quốc gia được.
Vì Trung Quốc chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò”, tính đến năm 2009, nên các quốc gia khác không đưa ra phản ứng chính thức gì cũng là một điều dễ hiểu. Sự im lặng đó không thể hiểu là “mặc nhiên thừa nhận” được. Chưa nói đến, trong thực tế, cộng đồng khu vực và quốc tế đã không hề im lặng mỗi khi nhìn thấy “đường lưỡi bò” xuất hiện trong các tài liệu, bản đồ, sơ đồ,… do Trung Quốc phát tán trong các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Liên quan đến “4 quần đảo” giữa Biển Đông mà Trung Quốc khẳng định rằng, họ có “chủ quyền lịch sử”, đã được công nhận rộng rãi trên trường quốc tế, nên họ có quyền vạch ra“đường lưỡi bò” để xác định các “vùng biển liên quan”,“vùng biển liền kề”. Chúng ta hãy xem xét luận điểm này thông qua một số sự kiện chủ yếu có liên quan đến phản ứng của các nước trước những tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này.
Sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không thể không nhắc đến là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể ngày 5/9/1951 tại Hội nghị San Francisco, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong tổng số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu, lúc bấy giờ, đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị.”
Như vậy, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xem là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Thực tế này cùng những đòi hỏi chủ quyền của Philippines và Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy, không thể nói “đường đứt khúc 9 đoạn” trên Biển Đông đã được các nước khác công nhận.
Các quốc gia chỉ có thể phản đối một khi quốc gia kia đã nêu yêu sách chính thức và rõ ràng. Chúng ta đã bàn chi tiết về đặc điểm mập mờ của “đường lưỡi bò” của phía Trung Quốc. Do đó, chỉ có thể phản đối yêu sách này trong trường hợp Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách.
Các học giả quốc tế thống nhất cho rằng, thời điểm Trung Quốc gửi hai Công hàm ngày 7/5/2009 lên Liên Hợp Quốc, trong đó có kèm bản đồ “đường lưỡi bò” mới là thời điểm đầu tiên bản đồ này xuất hiện công khai trước cộng đồng quốc tế.
Và ngay khi “đường lưỡi bò” chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế, ngày 8/5/2009, Việt Nam đã gửi Công hàm để phản đối.
Công hàm này nêu rõ: “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi đối với các quần đảo này. Yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như được minh hoạ trên bản đồ đính kèm với các Công hàm CML/17/2009 và CML/18/2009 không hề có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế, do đó vô hiệu.”
Ngày 8/7/2010, Indonesia, một quốc gia không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông, đã chính thức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách này của Trung Quốc. Công hàm của Indonesia viết: “Cái gọi là “bản đồ đường đứt đoạn” kèm theo Công hàm số: CML/17/2009, ngày 7/5/2009 nói trên rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và đi ngược lại các quy định của Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc.”
Ngày 5/4/2011, Philippines cũng gửi một Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Trong tuyên bố ngày 23/7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Clinton đã lên tiếng phản đối những yêu sách biển không tuân thủ Công ước Luật biển 1982 mà “đường lưỡi bò” chính là đối tượng được nhắc đến.
Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins cho rằng: “Bằng cách tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông thông qua “đường lưỡi bò”, có nghĩa rằng, toàn bộ khu vực này thuộc về Trung Quốc thì không có một quốc gia lớn nào trên thế giới có thể ủng hộ đòi hỏi này. Mỹ không ủng hộ. Ấn Độ không ủng hộ. Cộng đồng châu Âu không ủng hộ. Australia không ủng hộ. Nhật Bản không ủng hộ. Không có nước nào ủng hộ tuyên bố này của Trung Quốc.”
GS. Erik Franckx, Trưởng Khoa Luật Quốc tế và châu Âu, Đại học Brussel, Bỉ phân tích, “những hành động vừa nêu tuân thủ các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế cần thiết để tạo nên các hành động phản đối có hiệu lực pháp lý, do đó, “đường lưỡi bò” không thể được sử dụng chống lại các quốc gia phản đối. Tiêu chuẩn về mặt thời gian cũng đã được đáp ứng vì các quốc gia đã phản đối ngay khi có các hành động của Trung Quốc. Yêu cầu về mục đích rõ ràng cũng được đáp ứng vì các tuyên bố của Việt Nam và các nước khác rõ ràng nhằm mục đích ngăn chặn việc có hiệu lực các hành vi pháp lý mới của Trung Quốc ”.
Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “Điều quan trọng là phải có sự đồng ý của các quốc gia khác thì đó mới có thể coi là quyền hợp pháp. Nếu các nước khác không đồng ý thì không thể gọi là Trung Quốc có quyền và có tính hợp pháp về “đường lưỡi bò” được.”
Hơn nữa, điều đáng nhấn mạnh ở đây là, trong các văn bản quy phạm pháp luật do Trung Quốc công bố không những không nhắc đến “đường đứt khúc 9 đoạn”, mà ngay cả nội dung thể hiện trong đó còn mâu thuẫn với quan điểm chính thức của Trung Quốc về “đường lưỡi bò”.
Chẳng hạn, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958 quy định: “Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Bề rộng lãnh hải của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và các đảo ven bờ bởi biển cả.”
Như vậy, Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc đã xác định rõ ràng, các đảo bị tách biệt bởi biển cả, tức là vùng biển tự do quốc tế, chứ không phải là “vùng nước lịch sử” thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó.
Thêm nữa, Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải năm 1996,… đều có những nội dung mâu thuẫn tương tự.
Thượng nghị sỹ John McCain, một chính khách và từng là ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà khẳng định, tuyên bố của Trung Quốc như vậy là không đúng sự thật: “Trung Quốc đã tuyên bố đường đứt khúc 9 đoạn. Họ cho rằng, phần lớn khu vực Biển Đông thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đó là một tuyên bố không đúng sự thật. Khu vực này là vùng biển quốc tế”.
Các học giả Trung Quốc còn viện dẫn một số trường hợp yêu sách vùng nước lịch sử trong thực tiễn quốc tế như yêu sách của Liên Xô cũ ngày 20/7/1957 tại vịnh Pierre Đại đế; yêu sách của Libya ngày 11/10/1973 tại vịnh Sidra. Theo họ, các ví dụ này chứng tỏ trong thực tiễn quốc tế, luật về các vịnh lịch sử đã có được một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy, yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc là hợp pháp. Cần phải khẳng định ngay rằng, lập luận này chỉ dựa trên cơ sở một số trường hợp yêu sách quá đáng vùng nước lịch sử mà pháp luật quốc tế luôn phê phán. Các trường hợp này không tạo ra được tiền lệ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế và không được quốc tế công nhận.
Như vậy, rõ ràng, “đường đứt khúc 9 đoạn” chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông, được Trung Quốc “biến hóa” thành “vùng nước lịch sử” là không có cơ sở pháp lý. Giáo sư Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin Hải Dương Trung Quốc) đã phê phán: “Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục, chính là sự kiểm soát thực tế… Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có”thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa chúng ta không có được điều đó”.
“Đường lưỡi bò” vận dụng sai luật quốc tế
Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” vào tháng 5/2009 bằng cách đính kèm theo Công hàm gửi Liên Hợp Quốc phản đối Hồ sơ của Việt Nam và Hồ sơ chung Việt Nam - Malaysia về việc xác định ranh giới thềm lục địa ở ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải.
Để tạo bộ mặt pháp lý hợp thức cho yêu sách chủ quyền này, Trung Quốc đã vận dụng quy chế “quốc gia quần đảo” của Công ước Luật biển năm 1982 để vạch đường cơ sở quần đảo cho quần đảo Hoàng Sa, tuyên bố sẽ vạch tiếp cho quần đảo Trường Sa, để từ đó đòi hỏi hai quần đảo này cũng có “vùng đặc quyền kinh tế” và “thêm lục địa” riêng.
Điều này là không phù hợp quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, không phù hợp với cách vẽ bản đồ chuẩn quốc tế.
Ngày 15/6/1996, Trung Quốc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Cũng thời gian này, Trung Quốc ban hành “Quy định về hệ thống đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải”, trong đó có quần đảo Tây Sa (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). Theo đó, đường ranh giới của quần đảo này được tạo nên bởi 28 điểm, nối liền các điểm nhô ra nhất của các đảo, các bãi nửa nổi nửa chìm ngoài cùng của các đảo như Đá Bắc, Cồn Cát Tây, Đảo Bắc, Đảo Nam, Đảo Lincon, Đá Bông Bay,… Các đoạn dài nhất là Lincon - Đá Bông Bay với khoảng 36 hải lý; đoạn Đá Bông Bay - Đá Triton trên 75 hải lý; Đoạn đá Triton - Đá Bắc gần 80 hải lỷ; Đoạn Đá Bắc - Cồn Cát Tây khoảng 40 hải lý; Đảo Nam - Đảo Lincon 28 hải lý.
Theo nhận xét của Giáo sư Lý Lệnh Hoa thì “Việc phân định này vốn dĩ có rất nhiều chỗ không chuẩn xác, vậy mà nay muốn thực hiện phân định mơ hồ như vậy tại quần đảo Nam Sa”.
Sai lầm này bắt nguồn từ đâu?
Nhiều chuyên gia luật biển quốc tế đều nhận thấy rằng, Trung Quốc đã vận dụng quy chế “quốc gia quần đảo” (Điều 47 của Công ước) để vạch đường cơ sở này: “Quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nửa nổi nửa chìm của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô phải ở giữa tỷ số 1/1 và 9/1.”
Căn cứ vào quy định này để xem xét thì việc Trung Quốc vạch hệ thống đường cơ sở bao lấy toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là vận dụng sai nội dung quy định tại Điều 47 của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Vì, thứ nhất, quần đảo Hoàng Sa không phải là Quốc gia quần đảo theo như quy định tại Điều 47 của Công ước Luật Biển 1982; Thứ 2, diện tích mà hệ đường cơ sở này bao lấy là một khu vực rộng tới 17.000 km2, trong khi tổng diện tích các đảo nổi của quần đảo Hoàng Sa chỉ là 10 km2. Mặt khác, các đảo này lại cách xa nhau, quá 24 hải lý, không có lý do gì để có thể nối với nhau thành đường cơ sở bao lấy toàn bộ quần đảo này.
Theo TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban, Ban Biên giới của Chính phủ (nay là Uỷ ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao), Hoàng Sa không thể có quy chế này vì không thoả mãn các tiêu chuẩn được quy định trong Công ước về Luật Biển.
TS. Trần Công Trục phân tích: Trung Quốc vận dụng Công ước Liên Hợp Quốc 1982 nhưng lại rất sai (Ảnh:Daidoanket) |
TS. Trần Công Trục phân tích: “Họ vận dụng Công ước nhưng lại rất sai. Công ước 1982 quy định, một quốc gia quần đảo có quyền quy định đường cơ sở bao quanh toàn bộ quần đảo và đảo của quốc gia quần đảo, phía ngoài có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đấy là đối với quốc gia quần đảo còn chưa có điều khoản nào nói rằng, các quần đảo của quốc gia ven biển được phép quy định đường cơ sở bao quanh quần đảo đó.”
Vậy thì, cách xác định đường cơ sở lãnh hải để từ đó tính phạm vi các vùng biển, thềm lục địa liên quan ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được thực hiện như thế nào theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển?
Câu trả lời là: Căn cứ vào quy định của Công ước Luật Biển 1982 tại Điều 5, 6, 7 và Điều 121, quốc gia ven biển có chủ quyền đối với các đảo, quần đảo xa bờ thì có quyền xác định đường cơ sở lãnh hải cho từng đảo nổi để từ đó xác định các vùng biển và thêm lục địa của chúng. Đối với các đảo không thích hợp cho đời sống con người và không có đời sông kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thêm lục địa của chúng.
Việc xác lập chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu được khi xem xét bản chất của “đường lưỡi bò”.
Như mọi người đã biết, Việt Nam là quốc gia có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và cứ liệu lịch sử có giá trị để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nhà nước Việt Nam là nhà nước đâu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình tại hai quần đảo này từ khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền của nhà nước Việt Nam là thực sự, liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy định luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Pháp luật quốc tế hiện đại nghiêm cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Cụ thể, Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên Hợp Quốc nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Thế nhưng, bằng hành động quân sự, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974 và một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của nước ta năm 1988.
Bà Monique Chemillier Gendreau, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu nhấn mạnh, việc chiếm đóng bằng vũ lực không thể là cơ sở của một quyền: “Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Với quần đảo Trường Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ lực. Điều này không thể được xem là một quyền theo luật pháp quốc tế.”
Tướng quân đội Pháp, ông Daniel Schaeffer, nguyên tùy viên quân sự tại Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc kết luận, đường cơ sở của Trung Quốc ở quần đào Hoàng Sa đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản là vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và vi phạm các quy định của luật biển quốc tế về vạch đường cơ sở.
ÔngDaniel Schaefferkhẳng định:“Trung Quốc không có quyền lập ra đường cơ sở thẳng xung quanh quần đảo này. Việc Trung Quốc xác định đường cơ sở thẳng xung quanh Hoàng Sa là không hợp pháp. Rồi từ chỗ ảo tưởng về chủ quyền tại Hoàng Sa, Trung Quốc tiếp tục vẽ các đường cơ sở thẳng ảo xung quanh quần đảo Trường Sa.”
Trung Quốc khi đưa ra tuyên bố phản đối yêu sách thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và Malaysia còn lập luận rằng, “Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển liền kề và được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và tầng đất dưới đáy của vùng biển đó. Cụm từ “quyền chủ quyền và quyền tài phán” và “vùng biển liền kề” ám chỉ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo. Có nghĩa là Trung Quốc tuyên truyền cho quan điểm Hoàng Sa, Trường Sa có đầy đủ các vùng biển, qua đó, tạo bộ mặt pháp lý hợp thức cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, thay thế cho yêu sách lịch sử trước đây. Điều này càng chứng tỏ sự lúng túng và không nhất quán của những lập luận ngụy biện của Trung Quốc về sự xuất hiện và tồn tại khiên cưỡng của “đường lưỡi bò”.
Thực tế cho thấy, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa gồm các đảo, bãi cạn rất nhỏ, không có đời sống kinh tế riêng. Vì vậy, theo TS. Trần Công Trục, các quần đảo này không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
“Chúng ta biết, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một tổ hợp các đảo đá hết sức bé nhỏ, lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa là đảo Phú Lâm mới có 1,6km2 còn đảo Ba Bình ở quần đảo Trường Sa mới có 0,6 km2. Đó là khu vực bão tố, điều kiện khắc nghiệt. Với điều kiện như vậy thì không thể có hoạt động kinh tế riêng. Cho nên nó không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.”
Mới đây, trong một hội thảo tại Trung Quốc mang tên “Tranh chấp Biển Đông, chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế” do Viện Nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com tổ chức, ông Thịnh Hồng, Viện trưởng Viện Kinh tế Thiên Tắc, Giáo sư Đại học Sơn Đông, Trung Quốc đã thẳng thắn thừa nhận, “các đảo, bãi đá của quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) không thể duy trì được cuộc sống lâu dài của con người. Theo Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc, nói chung mỗi đảo nhỏ chỉ nên có lãnh hải 12 hải lý, thậm chí ít hơn, chứ không thể là vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý như hiện nay có người trong chúng ta chủ trương. Chúng ta không thể có được vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn ở quần đảo Nam Sa. Quần đảo Tây Sa cũng vậy”.
Trung Quốc đã tự mâu thuẫn với chính mình khi muốn duy trì “tiêu chuẩn kép” để đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các rạn san hô nhỏ ở Biển Đông, trong khi họ lại cực lực phản đối Nhật Bản vì lý do tương tự.
Ngày 6/2/2009, Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc phản đối hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa của Nhật Bản gửi Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc ngày 12/11/2008 lấy đảo Oki-no-Tori Shima làm điểm cơ sở đòi hỏi có một vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 400.000 km2 và thềm lục địa rộng khoảng 740.000 km2. Tại cuộc họp lần thứ 19 các nước thành viên Công ước Luật Biển, đoàn đại biểu Trung Quốc khẳng định, theo điều 121 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, các đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Lo ngại việc Nhật Bản đòi chủ quyền thềm lục địa trong vụ Oki-no-Tori Shima “sẽ tạo ra một tiền lệ có thể dẫn đến việc lấn chiếm trên các vùng biển và trong khu vực với quy mô lớn hơn”, Trung Quốc đã phản đối mạnh mẽ yêu sách biển này của Nhật Bản. Nhưng Trung Quốc lại xây dựng một số đảo nhân tạo đáng kể ở Biển Đông, qua đó đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, mở rộng vùng yêu sách vào tận các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển đất liền của các quốc gia khác, xâm phạm quyền lợi của các nước xung quanh Biển Đông nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung.
Hành động này của Trung Quốc đã làm dấy lên câu hỏi, phải chăng, Trung Quốc chỉ hành động phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển khi nó củng cố cho lập trường chính trị của nước này (như trường hợp Oki-no-Tori Shima) nhưng lại phớt lờ Công ước này khi nó không ủng hộ lập trường của Trung Quốc (như trường hợp ở Biển Đông).
Luật quốc tế ngăn chặn việc một quốc gia tuyên bố các quyền hợp pháp nếu nước đó phản đối các tuyên bố tương tự của các quốc gia khác.
Hơn nữa, Giáo sư Carlyle Thayer, Học viện Quốc phòng Autralia chỉ ra rằng, bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không phù hợp với cách vẽ bản đồ thông thường: “Nguyên tắc cơ bản của Luật Biển Quốc tế là Đất thống trị biển. Phải có chủ quyền trên đất liền và các đảo mới có quyền đòi hỏi mở rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ví dụ, bờ biển Việt Nam là đất liền thì Việt Nam có thể tuyên bố chủ quyền 200 hải lý, nhưng đối với trường hợp của Trung Quốc thì không hiểu dựa vào đâu, hòn đảo nào để xác định vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Giờ đây, luật pháp quốc tế qui định rằng, các đảo nhỏ không có ảnh hưởng, không thể căn cứ vào đó để vạch vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhưng Trung Quốc lại đang đòi hỏi một khoảng mặt nước rộng tính từ những đảo nhỏ và bãi đá ngầm đó. Điều này là không thể chấp nhận được đối với luật pháp quốc tế.
Cách vẽ đường lưỡi bò không phù hợp với cách vẽ bản đồ chuẩn quốc tế.”
Thực tiễn quốc tế cho thấy, xu hướng các nước muốn hạn chế cho các đảo đá trong Biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia trình Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc thể hiện thềm lục địa kéo dài từ lãnh thổ đất liền hai nước mà không tính đến các đảo trong quần đảo Trường Sa. Luật đường cơ sở quần đảo ngày 10/3/2009 của Philippines đã quyết định không gộp Kalayaan Islands và Scarborough (Hoàng Nham) vào quần đảo Philippines để có được vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đường cơ sở quần đảo theo Công ước Luật Biển năm 1982. Indonesia cũng chia sẻ quan điểm tương tự về vấn đề này khi tuyên bố rằng, “các đảo xa và nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa không thể tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc cho phép các đảo đá không có người cư trú và các bãi san hô nằm cách biệt với đất liền, giữa biển cả, được sử dụng làm điểm cơ sở để tạo ra các vùng biển vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Công ước Luật Biển và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cộng đồng quốc tế.”
Thượng nghị sỹ Mỹ Joe Liberman, Chủ tịch Uỷ ban An ninh Nội địa và các vấn đề của Chính phủ cho rằng: “Rõ ràng, những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông là quá rộng. Đó là hành động gây hấn khiến các nước khác buộc phải hành động. Tôi hy vọng Trung Quốc cần phải dừng lại, không có thêm hành động nào thì mới có thể giúp giải quyết được các tranh chấp hiện nay.”
Người Trung Quốc đang muốn đất nước mình là một thành viên đáng tin cậy của cộng đồng quốc tế, của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 thì việc từ bỏ “đường lưỡi bò” sẽ khắc phục được tính mập mờ, cản trở thực tiễn, tạo niềm tin với các nước hữu quan, làm cho các cuộc đàm phán phân định biển trong khu vực trở nên khách quan hơn, thúc đẩy hợp tác và phát triển.
Thương lượng hòa bình là con đường duy nhất
Các tranh chấp trên Biển Đông không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nước có liên quan mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác, đến hoà bình, ổn định và sự hợp tác phát triển của khu vực và thế giới.
Việc duy trì hoà bình và ổn định ở Biển Đông là một yêu cầu khách quan, tất yếu, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chung của các quốc gia tiếp giáp Biển Đông cũng như các quốc gia khác.
Mọi giải pháp cho vấn đề Biển Đông đều được các nước trên thế giới quan tâm. Việc các cường quốc tự vạch vùng ảnh hưởng bất lợi cho các nước láng giềng nhỏ hơn sẽ thúc đẩy xu hướng tìm kiếm sự cân bằng cần thiết vì lợi ích của các nước nhỏ này.
Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain, cựu ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà cho biết, những căng thẳng ở Biển Đông giữa Trung Quốc với các nước khác cho thấy, Mỹ cần phải gia tăng sự hiện diện trong khu vực này.
Ông John McCain nói: “Thời gian gần đây, căng thẳng đã tăng lên trong khu vực. Những căng thẳng đó cần phải được loại bỏ và đàm phán chính là câu trả lời cho vấn đề này. Trung Quốc cần ngồi vào bàn đàm phán với các nước có tuyên bố chủ quyền ở khu vực Biển Đông để đi đến một Hiệp định chia sẽ những nguồn tài nguyên lớn đó và như thế sẽ giúp giảm căng thẳng trong khu vực.”
Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không dựa vào nước này để chống lại hoặc làm đối trọng với nước kia. Việt Nam quan tâm và sẵn sàng tham gia vào mọi cố gắng song phương và đa phương nhằm duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và lợi ích chính đáng của các bên liên quan.
Tuyên bố chung về chuyến thăm chính thức CHND Trung Hoa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam năm 2011 đã nêu rõ: “Trước khi giải quyết dứt điểm tranh chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giữ thái độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng, hai Nước; xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới quan hệ hai Đảng, hai Nước và hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.
Ngày 7/9 vừa qua, tại Vladivostok, Liên bang Nga, nhân dịp dự Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 20, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có cuộc gặp với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào.
Tại cuộc gặp ở Vladivostok, Liên bang Nga, Lãnh đạo hai nước nhất trí cho rằng, quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Trung được các thế hệ lãnh đạo tiền bối và nhân dân hai nước dày công vun đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước và cả hai bên đều phải có trách nhiệm kế thừa, giữ gìn và phát huy. |
Về vấn đề trên biển, hai bên cho rằng cần kiên trì thông qua đàm phán, đối thoại giải quyết thỏa đáng vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, không để vấn đề Biển Đông ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của quan hệ hai nước.
Sau đó, ngày 20/9, trong chuyến tham dự Hội chợ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc và Hội nghị thượng đỉnh đầu tư, thương mại ASEAN-Trung Quốc lần thứ 9, tại thành phố Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc gặp Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình nhằm trao đổi những phương hướng lớn thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới. Hai bên nhất trí cho rằng, cần kiên trì giữ gìn hòa bình, ổn định tại Biển Đông, giải quyết thỏa đáng mọi vấn đề thông qua đàm phán hòa bình và xuất phát từ tầm cao chiến lược của quan hệ hai nước.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh điều quan trọng nhất hiện nay là hai bên cần thực hiện nghiêm chỉnh nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, tuân thủ nghiêm túc Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, giải quyết thỏa đáng tranh chấp và những vấn đề mới nảy sinh thông qua đàm phán hữu nghị, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử của các bên tại Biển Đông (COC).
Trước đó, vào tháng 6 năm 2012, tại Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com đã tổ chức Hội thảo mang tên “Tranh chấp Biển Đông, chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế”. Tại cuộc hội thảo này, ông Thịnh Hồng, Viện trưởng Viện Kinh tế Thiên Tắc, Trung Quốc cho rằng, nhân dân các nước ven bờ Biển Đông, trong đó có cả người Trung Quốc, đều có vùng biển 200 hải lý rộng rãi, có đủ không gian để phát triển nghề cá, khai thác tài nguyên biển nếu thực hiện đúng Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển.
“Khi hoạch định biên giới biển, Trung Quốc cần phải làm theo tinh thần Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, chứ không thể nói là căn cứ theo cái gọi là nhân tố lịch sử. Theo tôi, căn cứ vào Luật Biển mà làm thì nhân dân các nước ven bờ Nam Hải, nhân dân Trung Quốc đều có vùng biển 200 hải lý rộng rãi, có đủ không gian để phát triển nghề cá, khai thác tài nguyên đáy biển. Nhìn từ góc độ nhân loại, chúng ta cần có quan điểm toàn cục”, ông Thịnh Hồng nêu ý kiến.
Còn theo ông Trương Thử Quang, Giáo sư Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, “nội hàm của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 là phân định, bố cục lại vùng biển, để mỗi quốc gia ven biển đều có thể có 200 hải lý, thuận tiện cho các nước khai thác, sử dụng và quản lý biển, để toàn nhân loại đều hướng tới con đường cùng nhau giàu có. Đó cần là căn cứ cơ bản để chúng ta và các nước chung quanh giải quyết tranh chấp Nam Hải. Nước ta là quốc gia đã ký Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 thì chúng ta cần phải xử lý mọi việc theo tinh thần Công ước, tỏ cho thiên hạ thấy sự thành tín của mình.”
Rõ ràng, giải quyết hoà bình những tranh chấp trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa trong Biển Đông bằng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 là đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc, phù hợp với lợi ích của hoà bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Đó là con đường đúng đắn nhất.
Vậy giải pháp nào có thể giải quyết cơ bản các tranh chấp này?
Thời gian qua, nhiều học giả, chính khách đã nêu ra nhiều sáng kiến có giá trị. Cuốn sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông” của nhà xuất bản Thông tin và Truyên thông, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tập hợp lại một số sáng kiến đáng được cân nhắc.
Theo đó, trước hết, các bên phải thống nhất được cách giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển ở xung quanh Biển Đông như việc xác định hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa, ven bờ các hải đảo xa bờ, hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo, thống nhất các tiêu chuẩn để tính hiệu lực của các đảo trong việc hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa.
Thống nhất được phạm vi biển, thềm lục địa chồng lấn được hình thành từ các yêu sách của các quốc gia ven biển theo đúng các tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Thống nhất các tiêu chuẩn xác định phạm vi biển và thềm lục địa của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, với tư cách là những quần đảo xa bờ, không phải là quốc gia quần đảo vì các đảo ở đây có diện tích rất nhỏ, không thích hợp với đời sống con người, không có đời sống kinh tế riêng.
Thống nhất nguyên tắc pháp lý và thực tiễn quốc tế áp dụng cho việc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo này.
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban, Ban Biên giới của Chính phủ (nay là Uỷ ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao) cho rằng, nếu yêu sách nào đã đưa ra không phù hợp với những tiêu chuẩn đã được thống nhất thì phải bị coi là vô giá trị. Quốc gia nào đã đưa ra yêu sách đó phải từ bỏ nó với một tình thần thật sự cầu thị, tôn trọng luật pháp và thực tiễn quốc tế, vì lợi ích, hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế.
Trong thực tiễn quốc tế, có không ít những tấm gương về trách nhiệm và tinh thần cầu thị của một số quốc gia khi tham gia đàm phán xác định ranh giới biển. Đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vị dụ điển hình.
Theo đó, Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ bằng con đường thoả thuận thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh, nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Kết quả là ngày 25/12/2000 tại Bắc Kinh, hai nước đã chính thức ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, kết thúc một quá trình đàm phán dài 27 năm.
Trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc ngày 25/12/2000 đã nhấn mạnh: Việc hai nước ký kết “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” và “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ Cộng hoà XHCN Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy mạnh hơn nữa trong thế kỷ XXI. Có thể nói rằng, cùng với việc đã và đang giải quyết các tranh chấp trên biển với các nước láng giềng có liên quan, việc ký kết Hiệp định này là bước tiến mới trong việc xây dựng môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, góp phần tích cực vào việc củng cố hoà bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Vì một Biển Đông hoà bình và phát triển, các bên liên quan trong Biển Đông cần tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được trong thời gian qua để trước hết từ bỏ yêu sách đơn phương về biên giới biển với “đường đứt khúc 9 đoạn”. Trên cơ sở đó, cùng nhau tìm được một mẫu số chung, làm cơ sở pháp lý cho mọi diễn đàn giải quyết các tranh chấp có thể có trong thời gian tới.
Thực hiện được những nội dung này là điều không dễ dàng, thiết nghĩ cần có biện pháp và lộ trình một cách thiết thực. Theo ông Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, phương châm có thể áp dụng trong bối cảnh hiện nay là: “Dễ giải quyết trước, khó giải quyết sau”.
Biển Đông nổi sóng hay yên bình đang là một vấn đề được tất cả các quốc gia trong khu vực và thế giới quan tâm. Nó phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm chính trị của các bên liên quan, kể cả ở trong khu vực và ngoài khu vực./.
Nhóm tác giả: Trần Công Trục - Lê Phúc - Minh Hiển - Lê Bình - Thu Lan
Theo VOV